Kiểu dữ liệu và các kiểu dữ liệu
Kiểu dữ liệu (Data type) là một khái niệm quan trọng, không chỉ trong Javascript. Hầu như tất cả các ngôn ngữ lập trình đều phân loại dữ liệu thành nhiều kiểu khác nhau. Mục đích để việc code dễ hiểu hơn, rõ ràng và hạn chế lỗi hơn.
Để chương trình có thể xử lý một biến, nó phải biết biến đó thuộc kiểu dữ liệu nào.
Trong Javascript, dữ liệu được chia thành 6 loại sau:
- Number: Các số nguyên hoặc số thực. Ví dụ: 69 hoặc 69.96
- String: là các text như “Hello World”, text có thể có một hoặc nhiều ký tự.
- Boolean: chỉ có 2 giá trị là true hoặc false.
- Object: là một tập hợp những thuộc tính và giá trị tương ứng.
- Array (đây là một trường hợp đặc biệt của kiểu dữ liệu object)
- Underfine: các giá trị chưa được gán – một kiểu độc lập có một giá trị duy nhất là undefined.
Việc hiểu rõ bản chất một biến thuộc kiểu dữ liệu nào là vô cùng quan trọng. Không giống với các ngôn ngữ chặt chẽ khác (ví dụ như: Java), việc khai báo một biến trong JS không được định nghĩa kiểu dữ liệu rõ ràng. Nếu bạn không “tỉnh”, nhiều khi nhầm kiểu dữ liệu sẽ khiến kết quả tính toán không như mong đợi.
Hàm trong Javascript
Khi nói về kiểu dữ liệu, nên mình tiện sẽ trình bày về Function trong Javascript luôn. Vì hai phạm trù này nó cũng có phần nào tương quan với nhau.
Function la gì?
Nói một cách đơn giản, function là khối các câu lệnh được sắp xếp để thực hiện một tác vụ cụ thể nào đó.
Một chương trình hoạt động được thì bạn cần phải định nghĩa chương trình làm gì, làm như thế nào, khi nào thì làm việc gì đó… những hành động đó sẽ được định nghĩa và thực hiện bởi function.
Có thể hiểu ở một khía cách nào đó thì function chính là những hành động (mức đơn vị nhỏ nhất) của một chương trình máy tính.
Với bất ký ngôn ngữ lập trình nào, đều có những function được định nghĩa sẵn (gọi là built-in function). Ngoài ra, bạn có thể tự tạo riêng function.